Tin Tổng công ty

PVN đã cơ bản xử lý xong những tồn tại, khuyết điểm trong kết luận Thanh tra

(Petrotimes) - Tập đoàn Dầu khí Việt Nam báo cáo kết quả thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng với lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Chính phủ về việc xử lý sau thanh tra.
Chiều ngày 9 tháng 4, đồng chí Phùng Đình Thực, Chủ tịch Hội đồng Thành viên Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam đã có văn bản giải trình về những vấn đề mà kết luận của Thanh tra Chính phủ đã kiến nghị và thực hiện nội dung kết luận của Thanh tra Chính phủ tại Kết luận thanh tra số 124/KL-TTCP ngày 18/01/2012 về việc chấp hành quy định của pháp luật về quản lý sử dụng vốn, tài sản tại Tập đoàn Dầu khí Việt Nam trong giai đoạn 2006- 2010 và công văn 1775/VPCP- KNTN ngày 20/03/2012 của Văn phòng Chính phủ thông báo ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ về việc xử lý sau thanh tra tại PVN.



CT.HĐTV ông Phùng Đình Thực tại buổi họp báo quý I năm 2012

Ngay sau khi có kết luận Thanh tra và công văn của Thủ tướng, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (Tập đoàn) đã ban hành Quyết định số 805/QĐ – DKVN ngày 10/2/2012 về việc tổ chức thực hiện các kiến nghị của TTCP, công văn số 2573/DKVN – TCKT ngày 03/4/2012 phân công giải trình, chấn chỉnh, khắc phục tồn tại theo ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ về xử lý sau Thanh tra; Tập đoàn Dầu khí Việt Nam xin được báo cáo tình hình xử lý tồn tại đến nay, như sau:

          1. Về kiến nghị Tập đoàn thu hồi về Quỹ hỗ trợ sắp xếp doanh nghiệp (HTSXDN) số tiền 1.922 tỷ đồng thu được từ cổ phần hóa (số chưa nộp) và thu tiền lãi chậm nộp theo quy định:

Đến thời điểm 31/12/2010, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam đã thực hiện cổ phần hoá được 17 công ty, hầu hết các công ty sau cổ phần hoá đã phát triển tốt, đã thu về Quỹ hỗ trợ sắp xếp đổi mới doanh nghiệp trên 22 nghìn tỷ đồng; Tuy nhiên có những công ty sau khi thực hiện cổ phần hoá cũng gặp không ít khó khăn. Các đơn vị được nêu trong kết luận thanh tra chưa nộp ngay tiền cổ phần hóa về Tập đoàn là những đơn vị gặp khó khăn về vốn do những nguyên nhân khác nhau.

Việc Tổng công ty Khí Việt Nam(PVGas) chậm nộp về Quỹ HTSXDN sau khi cổ phần hóa vì Tổng công ty Điện lực Dầu khí (PVPower) chậm thanh toán tiền mua khí do Tập đoàn Điện lực Việt Namliên tục chậm  thanh toán tiền mua điện cho PV Power lên đến trên 10 nghìn tỷ đồng. Sau thanh tra, mặc dù Tập đoàn Điện lực Việt Nam chưa trả nợ nhưng Tổng công ty Điện lực Dầu khí Việt Nam đã vay và trả nợ cho PV Gas, đến nay PV Gas đã hoàn thành nộp số tiền 1.903 tỷ đồng và nhận nợ với Tập đoàn số tiền lãi phát sinh theo quy định.

Tập đoàn Dầu khí Việt Nam tiếp tục đôn đốc, yêu cầu Công ty Máy & Phụ tùng và Công ty Cổ phần Hóa dầu Dầu khí nộp về Quỹ HTSXDN với số tiền 125 tỷ đồng

         2. Về kiến nghị Tập đoàn báo cáo xin ý kiến Thủ tướng Chính phủ về việc sử dụng 15.601 tỷ đồng cho các hoạt động tài chính không thuộc dự án trọng điểm dầu khí (góp vốn liên doanh Rusvietpetro, cho vay liên doanh Rusvietpetro, cấp vốn điều lệ cho PVEP):

Về nội dung này Tập đoàn đã có các công văn số 130/DKVN-HĐTV ngày 8/10/2010 và công văn số 108/DKVN-HĐTV ngày 15/6/2011 báo cáo Thủ tướng Chính phủ về việc sử dụng tiền lãi dầu khí để lại cho PVN, theo đó PVN kiến nghị Thủ tướng chấp thuận việc sử dụng nguồn lãi dầu khí để lại PVN để đầu tư góp vốn cho hoạt động tìm kiếm thăm dò tại công ty Rusvietpetro và PVEP, đây là hoạt động cốt lõi của Tập đoàn (hoạt động này đã được đánh giá có hiệu quả cao trong kết luận của Thanh tra Chính phủ).

Trước thời điểm kết luận Thanh tra, Chính phủ chưa ban hành tiêu chí xác định công trình, dự án dầu khí được phép sử dụng tiền lãi, dầu, khí được Nhà nước để lại cho Tập đoàn Dầu khí Việt Nam; Ngày 14/10/2011 Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 1786/QĐ-TTg về việc ban hành tiêu chí xác định công trình, dự án dầu khí được phép sử dụng tiền lãi, dầu, khí được Nhà nước để lại cho Tập đoàn Dầu khí Việt Nam, theo đó các công trình, dự án phát triển mỏ dầu khí trong nước và nước ngoài có trong quy hoạch phát triển ngành Dầu khí là đối tượng được sử dụng tiền lãi dầu khí Nhà nước để lại cho Tập đoàn. PVEP và Rusvietpetro là hai đơn vị của Tập đoàn Dầu khí thực hiện các chức năng trên nên việc sử dụng nguồn vốn trên là phù hợp. Như vậy, việc sử dụng 15.601 tỷ đồng này đã được xử lý xong  phù hợp với tiêu chí được Chính phủ ban hành ngày 14/10/2011

Hiện nay, các dự án do 02 công ty trên đầu tư đang phát huy tác dụng và đem lại hiệu quả kinh tế cao như các dự án khai thác dầu của liên doanh Rusvietpetro ở vùng mỏ Nhenhexky đã trở thành điểm sáng về hiệu quả kinh tế, quan hệ đối ngoại và đầu tư ra nước ngoài của PVN.

          3. Về kiến nghị Tập đoàn điều chỉnh lại đúng nguồn các khoản tiền: xây dựng Trường PTTH Đất Mũi, xây dựng Trường Mẫu giáo Trà My – Vũng Tàu

Việc thực hiện công tác an sinh xã hội trong các năm qua được Tập đoàn và các đơn vị triển khai rất tốt và đã được Chính phủ đánh giá cao công tác này của Tập đoàn, việc triển khai xây dựng trường Đất Mũi là không ngoài nhiệm vụ trên. Việc sử dụng chưa đúng nguồn cho việc thực hiện dự án này đã được Tập đoàn điều chỉnh lại từ nguồn kinh phí an sinh xã hội của Tập đoàn.

          4. Về kiến nghị Tập đoàn báo cáo xin ý kiến của Thủ tướng Chính phủ và Bộ Tài chính trong việc: ứng vốn cho các tỉnh Sóc Trăng, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Hậu Giang với số tiền 622,2 tỷ đồng, sử dụng 97,6 tỷ đồng từ Quỹ đầu tư phát triển cho các địa phương để xây dựng các công trình không phải công trình dầu khí.

Tập đoàn Dầu khí Việt Nam xin báo cáo: Việc ứng trước vốn cho các địa phương, ngành trong các năm qua của Tập đoàn là để giúp các địa phương, ngành thực hiện các hạng mục công trình ngoài hàng rào và công trình gắn với các dự án đầu tư của Tập đoàn nhằm đảm bảo cho các dự án triển khai đúng tiến độ. Một số dự án tương tự cũng đã được Thủ tướng Chính phủ cho phép Tập đoàn ứng vốn trước cho các địa phương để thực hiện các hạng mục nêu trên. Việc Tập đoàn Dầu khí Việt Nam ứng vốn cho các tỉnh Sóc Trăng, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Hậu Giang để các địa phương thực hiện công tác giải phóng mặt bằng, sử dụng Quỹ ĐTPT cho các địa phương để xây dựng các công trình gồm: đường vào ấp Bao Nhàn – xã Hồ Thị Kỷ, đường giao thông xã Hồ Thị Kỷ, Trường mẫu giáo Trà My được xử lý cụ thể như sau:

- Tập đoàn Dầu khí Việt Nam sẽ ký Biên bản thoả thuận với UBND tỉnh Hà Tĩnh, Quảng Bình về việc hoàn trả tạm ứng của hai dự án NMNĐ Vũng Áng 1 và Sân phân phối 500kV TTĐL Vũng Áng (tỉnh Hà Tĩnh) và Dự án CSHT TTĐL Quảng Trạch (tỉnh Quảng Bình).

- Số tiền Tập đoàn ứng trước cho tỉnh Sóc Trăng sẽ được khấu trừ vào tiền thuê đất hoặc giao đất có thu tiền sử dụng đất sau này của Dự án TTĐL Long Phú – GĐ1. Tập đoàn Dầu khí ViệtNamđang làm việc với tỉnh Hậu Giang để hoàn tất công tác đền bù giải phóng mặt bằng và quyết toán chi phí này của Dự án TTĐL Sông Hậu 1.

- Về việc sử dụng 97.601 triệu đồng từ Quỹ đầu tư phát triển cho các địa phương nơi có dự án dầu khí: Ngày 21/10/2011, Tập đoàn đã có công văn số 9649/DKVN-HĐTV báo cáo Thủ tướng Chính phủ tình hình ứng vốn tại các địa phương. Ngày 08/12/2011, Bộ Tài chính có công văn trả lời số 16772/BTC-ĐT, theo đó, đề nghị Tập đoàn DKVN và Uỷ ban Nhân dân tỉnh Cà Mau thực hiện theo đúng các nội dung hướng dẫn của Bộ Tài chính tại công văn số 15113/BTC-ĐT ngày 08/11/2011 về đề nghị hỗ trợ vốn ngân sách trung ương kế hoạch năm 2012 cho các dự án của tỉnh Cà Mau.

          6. Về kiến nghị Tập đoàn Dầu khí Việt Nam chỉ đạo các đơn vị thành viên rà soát việc đầu tư góp vốn ra ngoài doanh nghiệp, xác định những đơn vị bị thua lỗ để có kế hoạch thoái vốn, tái cơ cấu thích hợp để bảo toàn vốn Nhà nước:

Việc đầu tư vào các đơn vị khác do các công ty thành viên đầu tư thực hiện trong các năm trước đây là phù hợp với điều lệ tổ chức hoạt động của Tập đoàn Dầu khí ViệtNamvà phù hợp với điều kiện thị trường và nền kinh tế tốt. Tuy nhiên một số doanh nghiệp hiệu quả hoạt động chưa cao do mới thành lập và chịu sự ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế. Ngay từ năm 2009, trên cơ sở đánh giá tình hình thị trường và mô hình hoạt động của Tập đoàn, Tập đoàn đã chỉ đạo các đơn vị tái cấu trúc sắp xếp lại để đảm bảo nâng cao hiệu quả hoạt động của các đơn vị.

Thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 khoá IX về tiếp tục sắp xếp, đổi mới và phát triển doanh nghiệp Nhà nước, Nghị quyết 102/NQ- CP ngày 04/12/2011 của Chính phủ về tái cấu trúc các doanh nghiệp; Ngày 28 tháng 03 năm 2012, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam đã trình Thủ tướng Chính phủ, Bộ Công thương đề án tái cấu trúc Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam tại công văn số 685/DKVN – HĐTV. Theo đó, Tập đoàn xác định 05 lĩnh vực sản xuất kinh doanh chính là tìm kiếm, thăm dò và khai thác dầu khí, Lọc hóa dầu, Công nghiệp khí, Công nghiệp điện, dịch vụ dầu khí chất lượng cao và xây dựng lộ trình thoái vốn các lĩnh vực khác đến năm 2015 phù hợp với chủ trương của Đảng và Nhà nước.

          7. Về kiến nghị Tập đoàn Dầu khí Việt Nam chỉ đạo Tổng công ty Thăm dò Khai thác Dầu khí (PVEP) thu hồi khoản tiền Tổng Công ty Cổ phần Dịch vụ Kỹ thuật Dầu khí (PTSC) chưa thanh toán trong việc chuyển nhượng tàu Bình Minh 02 theo hợp đồng. Chỉ đạo PVEP thu hồi khoản tiền 111,7 tỷ đồng mà Tổng công ty Cổ phần Xây lắp Dầu khí chưa thanh toán trong việc chuyển nhượng Khách sạn Thái Bình:

- Đến thời điểm hiện tại, PTSC đã thanh toán cho PVEP đợt 1 số tiền liên quan đến việc chuyển nhượng tàu Bình Minh 02 là 123 tỷ đồng, phần còn lại sẽ được PTSC thanh toán trả chậm có tính lãi với PVEP trong thời gian 08 năm theo đúng hợp đồng kinh tế đã được hai đơn vị này ký kết.

 - Ngày 29/12/2010, thực hiện chủ trương tái cơ cấu;  PVEP đã ký hợp đồng chuyển nhượng toàn bộ vốn của Công ty TNHH MTV Du lịch Dầu khí Thái Bình cho PVC, trong đó dự án khách sạn dầu khí Thái Bình (đang thi công dở dang) đã chuyển giao cho PVC với giá trị là 111,7 tỷ đồng. Hiện nay, dự án đang thi công, PVC đang thu xếp vốn để hoàn trả cho PVEP.

          8. Về kiến nghị Tập đoàn Dầu khí Việt Nam rà soát lại tất cả các gói thầu chỉ định thầu chưa đúng quy định, phân tích nguyên nhân chỉ định thầu và đánh giá hiệu quả đối với các gói thầu trên, đồng thời chỉ đạo để chấm dứt việc chỉ định thầu các dự án của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam cho các đơn vị không phải là thành viên của Tập đoàn:

Sau khi rà soát, phân tích nguyên nhân các gói thầu chỉ định thầu chưa đúng quy định, Tập đoàn báo cáo nguyên nhân chỉ định thầu như sau:

- Đối với các gói thầu được chỉ định cho những đơn vị không thuộc Tập đoàn như tại kết luận của Thanh tra Chính phủ, phần lớn các gói thầu này đều là các công việc chuyên ngành (như cắm mốc ranh giới, tư vấn hỗ trợ đền bù, cấp chứng chỉ công trình) hoặc các công việc đòi hỏi chuyên môn cao (tư vấn quản lý dự án đường ống dẫn khí, khảo sát biển…) nên tại thời điểm đó chưa có đơn vị thành viên nào của Tập đoàn có thể thực hiện được. Ngoài ra, một số gói thầu được chỉ định vào thời điểm đó là căn cứ Công văn số 2006/VPCP-KTN ngày 29/3/2010, theo đó Thủ tướng Chính phủ đồng ý để Hội đồng quản trị Tập đoàn chủ động xem xét, quyết định hình thức lựa chọn nhà thầu (chứ không bắt buộc phải giao cho đơn vị thành viên thuộc Tập đoàn thực hiện).

- Việc chỉ định thầu đều do yêu cầu cấp bách về tiến độ của dự án, yêu cầu về giao diện giữa các hạng mục thuộc dự án. Một số công việc là do tính đặc thù và việc chỉ định thầu các đơn vị ngoài ngành này đều dựa trên kết quả đã được lựa chọn ở dự án khác tương tự.

- Đánh giá hiệu quả đối với các gói thầu chỉ định sai quy định:

          + Việc chỉ định các gói thầu này đều lựa chọn các nhà thầu có năng lực, kinh nghiệm phù hợp (một số là nhà thầu nước ngoài đã thực hiện gói thầu tương tự nay được chọn thực hiện gói thầu tương tự tiếp theo, một số là đơn vị chuyên ngành của Nhà nước như Viện Kinh tế Xây dựng – Bộ Xây dựng,…), việc triển khai gói thầu đáp ứng tiến độ dự án và hoạt động sản xuất kinh doanh của các đơn vị trong Tập đoàn. Bên cạnh đó, các gói thầu này đều đã tiết giảm được chi phí so với dự toán gói thầu được phê duyệt (một số gói thầu giảm được từ 4,4% đến 15% so với dự toán được duyệt), với chất lượng và tiến độ triển khai được đảm bảo, các gói thầu đã đóng góp hiệu quả vào kết quả sản xuất kinh doanh của đơn vị.

          + Các gói thầu được nêu tại kết luận của Thanh tra Chính phủ đến nay đã hoàn thành, đáp ứng tốt về mặt chất lượng và đưa vào sử dụng đúng tiến độ, đóng góp vào hiệu quả chung của các dự án, công trình.

 - Tập đoàn Dầu khí Việt Nam đã ký ban hành Chỉ thị số 1428/CT-DKVN ngày 24/02/2012 về việc chấn chỉnh, khắc phục tồn tại trong hoạt động đấu thầu tại các Đơn vị thành viên của Tập đoàn để thực hiện trong toàn ngành, đồng thời chấm dứt việc chỉ định thầu không thuộc đối tượng được phép theo quy định nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả công tác đấu thầu.

          9. Yêu cầu Tập đoàn và một số nhà thầu thực hiện nghiêm túc việc trích Quỹ bảo đảm nghĩa vụ tài chính theo Quyết định số 40/2007/QĐ – TTg ngày 2/3/2007 của Thủ tướng Chính phủ

Việc thành lập Quỹ thu dọn mỏ do (Quỹ đảm bảo nghĩa vụ tài chính) của các nhà thầu nước ngoài do Tập đoàn Dầu khí Việt Nam đề xuất và được Thủ tướng Chính phủ ban hành tại Quyết định số 40/2007/QĐ – TTg ngày 2/3/2007. Quyết định ban hành năm 2007, nên có một số hợp đồng ký trước đó không đề cập đến vấn đề này, do đó các nhà thầu chưa thực hiện. Tập đoàn Dầu khí Việt Nam đã trình Bộ Công thương và Thủ tướng Chính phủ phê duyệt bổ sung các điều khoản trong hợp đồng để yêu cầu các nhà thầu thực hiện trích lập quỹ; Hiện nay, một số hợp đồng đã thực theo đúng quy định (các nhà thầu Cửu Long JOC, JVPC, VSP, KNOC), Tập đoàn Dầu khí Việt Nam đang tiếp tục yêu cầu các nhà thầu thực hiện đúng theo quy định tại quyết định 40/2007/QĐ-TTg ngày 23/7/2007 của Thủ tướng Chính phủ.

 Hiện tại, Tập đoàn đang tích cực rà soát, đánh giá trung thực, khách quan, nghiêm túc kiểm điểm trách nhiệm theo ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ và kết luận của TTCP. Với tinh thần thật sự cầu thị, nghiêm túc, Tập đoàn đã ban hành ngay các quyết định, chỉ thị khắc phục sau thanh tra; Đến nay, Tập đoàn Dầu khí đã xử lý cơ bản xong những tồn tại, khuyết điểm trong kết luận Thanh tra.

Chủ tịch Hội đồng Thành viên Phùng Đình Thực cũng đề nghị lãnh đạo Đảng, Nhà nước và Chính phủ chỉ đạo các cơ quan chức năng và các cơ quan truyền thông đưa tin một cách chính xác, trung thực, khách quan các kết luận của Thanh tra Chính phủ. Bởi lẽ thời gian vừa qua một số báo, mạng thông tin đã đưa tin không đầy đủ, chưa chính xác, chưa phản ánh đúng bản chất kết luận của TTCP dẫn đến dư luận xã hội trong nước, kể cả các đối tác, các công ty dầu khí nước ngoài hiểu không đúng, nghi ngờ hiệu quả hoạt động của PVN, gây bất lợi cho hoạt động của Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam ở Việt Nam và ở nước ngoài.